Theo vị chuyên gia, Việt Nam có thể cân nhắc phát hành trái phiếu dự án có kỳ hạn rất dài, ví dụ 30, 50 năm, thậm chí 100 năm hoặc trái phiếu vĩnh cửu (perpetual bonds) để huy động người dân, doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia đầu tư dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam.

Ông Nguyễn Quang Thuân – Chủ tịch FiinGroup và FiinRatings
Cụ thể, ông Nguyễn Quang Thuân – Chủ tịch FiinGroup và FiinRatings – cho rằng, tổng mức đầu tư lên tới hơn 67 tỷ USD cho dự án đường sắt cao tốc Bắc – Nam là con số quá lớn, không chỉ với các doanh nghiệp Việt Nam mà ngay cả với Chính phủ.
Theo ông Thuân, thách thức lớn nhất không nằm ở chuyện tiền, mà là làm sao xây dựng được cơ chế minh bạch, chuyên nghiệp và rõ ràng để triển khai dự án hiệu quả. Đồng thời, cần có những cải cách mạnh mẽ đối với thị trường vốn trong nước.
Ông Thuân cho rằng, Việt Nam có thể cân nhắc phát hành trái phiếu dự án có kỳ hạn rất dài – ví dụ 30 năm, 50 năm, thậm chí lên đến 100 năm – hoặc trái phiếu vĩnh cửu (perpetual bonds) nhằm huy động sự tham gia của người dân, doanh nghiệp và các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào dự án đường sắt cao tốc Bắc – Nam.
"Đây có thể là một giải pháp quan trọng và sẽ thu hút được sự hưởng ứng của người dân nếu như Siêu dự án được triển khai một cách minh bạch", lãnh đạo FiinGroup cho hay.
Cụ thể, cấu trúc nguồn vốn nợ vay (khoảng 50 tỷ USD) có thể chia thành các nguồn sau:
- 30% qua vay ngân hàng thương mại: tức khoảng 15 tỷ USD (chỉ tương đương với khoảng 2% tổng dư nợ toàn bộ hệ thống ngân hàng hiện nay);
- 20% qua Trái phiếu hạ tầng cho các định chế tài chính – đầu tư – bảo hiểm trong nước, ví dụ khoảng 5 tỷ USD (chỉ tương đương khoảng 10% tổng quy mô AUM ngành quản lý quỹ và ngành bảo hiểm của Việt Nam);
- 20% qua Trái phiếu ra thị trường quốc tế, tức khoảng 10 tỷ USD và trong đó khoảng 5 tỷ USD có bảo lãnh của Chính phủ; và phần còn lại 5 tỷ USD vay các đối tác truyền thống của Việt Nam như WB và ADB, JBIC,…
- 20% qua Trái phiếu Hạ tầng khoảng 10 tỷ USD kỳ hạn rất dài (30 năm, 50 năm hoặc không có ngày đáo hạn) cho thị trường trong nước. Phương án này huy động sự chung tay của người dân và doanh nghiệp, và nhiều khả năng được hưởng ứng cao. Ví dụ có 10 triệu trái chủ tham gia với 10.000 USD/trái chủ.
- 10% từ nguồn huy động khác.

Với phần vốn 12 tỷ USD còn lại mà Công ty Dự án (SPV) phải tự huy động, đây được xem là điều kiện tiên quyết để dự án đạt mức rủi ro chấp nhận được, qua đó thu hút sự quan tâm và tham gia của các định chế tài chính quốc tế.
Trong trường hợp này, Chính phủ có thể giao cho một hoặc một số doanh nghiệp tư nhân làm nhà đầu tư chính. Tuy nhiên, nếu các doanh nghiệp này không thể huy động đủ số vốn 12 tỷ USD, Nhà nước có thể xem xét góp vốn ban đầu để tạo lực đẩy và nâng cao tính khả thi của dự án./.
Nguồn tham khảo: Người Đưa Tin Pháp Luật
Nội dung liên quan
- Nước sở hữu mạng lưới đường sắt cao tốc lớn thứ hai thế giới sẵn sàng hợp tác với Việt Nam
- Phó Thủ tướng yêu cầu khởi động giải phóng mặt bằng dự án đường sắt cao tốc Bắc – Nam trong tháng 8
- Thủ tướng đề nghị ADB tài trợ vốn cho các dự án đường sắt, nhà máy điện hạt nhân của Việt Nam
- Phó thủ tướng: Không phân biệt doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân khi làm đường sắt cao tốc, quan trọng là năng lực
- Các nước làm đường sắt cao tốc như thế nào?