Mạng xã hội kinh tế tài chính DFF Mạng xã hội kinh tế tài chính DFF Mạng xã hội kinh tế tài chính DFF

Tản mạn về USD và NDT

08:08 15/08/2025

Tiền tệ (currency) rõ ràng là một thế mạnh thượng thừa của Mỹ khi so sánh với bất kỳ siêu cường nào trong lịch sử khi đồng USD trở thành một công cụ để Mỹ có thể tăng cường chi tiêu mà không sợ các giới hạn về thâm hụt ngân sách – những thảo luận về tác động tiêu cực của thâm hụt ngân sách gia tăng tới vị trí thống trị của USD ngày càng nhiều, nhưng nhìn chung các kết luận vẫn cho rằng tương lai USD bị lật đổ vẫn còn xa. Trung Quốc dĩ nhiên cũng muốn đồng NDT trở thành đồng tiền quốc tế quan trọng nên quốc gia này đã tập trung vào ba việc:

(1) Với các trao đổi hàng hoá và tài chính sẽ tăng tỷ lệ thanh toán bằng đồng NDT.

(2) Với cơ sở hạ tầng tài chính: (i) thay thế hệ thống SWIFT bằng CPIS, (ii) thúc đẩy sử dụng đồng tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (CBDC) do Trung Quốc phát hành (DCEP) để khiến việc thanh toán qua SWIFT sẽ trở nên kém thiết yếu hơn.

(3) Thúc đẩy NDT trở thành đồng tiền dự trữ.

Nhưng cả ba mặt này đều có những tiến triển chậm.

Thúc đẩy để NDT trở thành một đồng tiền thanh toán song phương và đa phương

Việc sử dụng đồng NDT làm đồng tiền thanh toán quốc tế vẫn tiếp tục tăng trưởng nhanh chóng.

Hiện tại, khoảng một phần ba các khoản thanh toán giữa Trung Quốc và khu vực Châu Á - Thái Bình Dương được thực hiện bằng đồng NDT. Những con số này được dự đoán sẽ tăng đáng kể trong những năm tới do các doanh nghiệp Trung Quốc mong muốn sử dụng đồng tiền của mình cho các giao dịch thương mại.

Việc sử dụng đồng NDT ngày càng tăng đã dẫn đến khoảng 1.500 tỷ NDT (231 tỷ USD) tiền gửi ở nước ngoài, với số lượng lớn nhất lần lượt ở Hồng Kông, Đài Loan và Singapore. Khi đồng NDT tích lũy ngày càng nhiều bên ngoài Trung Quốc, các nhà đầu tư sẽ tăng nhu cầu về các kênh để hồi hương vốn về nước.

Bất chấp sự tăng trưởng nhanh chóng, việc thanh toán bằng đồng NDT không hề bền vững.

Theo số liệu của SWIFT, năm ngoái, thanh toán bằng đồng NDT chỉ chiếm 4,61% tổng thanh toán toàn cầu – con số này thậm chí còn thấp hơn cả đồng GBP.

Một trong những lý do chính cho sự khác biệt này là do cơ sở hạ tầng cho thanh toán xuyên biên giới bằng đồng NDT còn yếu kém. Thanh toán xuyên biên giới hiện được thực hiện thông qua một hệ thống chắp vá các trung tâm thanh toán bù trừ và ngân hàng đại lý.

Các khoản thanh toán này bị cản trở bởi các thủ tục định tuyến phức tạp, nhu cầu duy trì nhiều tài khoản đại lý nước ngoài, tình trạng thiếu thanh khoản tại một số trung tâm thanh toán NDT ở nước ngoài, giờ hoạt động khác nhau giữa các trung tâm thanh toán bù trừ, thiếu các tiêu chuẩn chung giữa hệ thống thanh toán quốc tế và nội địa Trung Quốc, và các biện pháp kiểm soát vốn của Trung Quốc.

Bên cạnh thanh toán thương mại song phương, Trung Quốc muốn tiến tới thanh toán toàn bộ dầu mỏ nhập khẩu bằng đồng NDT.

Chủ tịch Tập Cận Bình khi đến Arab Saudi đã đề xuất xây dựng nền tảng thanh toán trực tiếp mua bán dầu bằng đồng NDT trong đó Trung Quốc sẽ tài trợ toàn bộ để xây hệ thống này. Nhưng câu trả lời vẫn là Không. Bởi lẽ (i) bảo hiểm tỷ giá của đồng USD vẫn thấp hơn nhiều so với việc đổi sang đồng NDT, (ii) các nước OPEC vẫn khó có thể thách thức trực diện uy quyền tài chính của Mỹ bởi phụ thuộc nhiều khía cạnh, (iii) tỷ trọng thanh toán bằng đồng NDT trong tổng xuất/nhập khẩu dầu mỏ của Trung Đông và Trung Quốc quá thấp.

Ước tính cho thấy nếu đổi tất cả nhập khẩu sang NDT, thì con số đó cũng chỉ chiếm khoảng 23% tổng xuất khẩu dầu mỏ của Trung Đông, (iv) SWIFT vẫn thống trị việc truyền lệnh giao dịch.

Thúc đẩy CIPS thay thế SWIFT

Trong bối cảnh đó, năm 2015, Trung Quốc đã thúc đẩy xây dựng CIPS để thanh thế SWIFT. Hệ thống Thanh toán Liên ngân hàng Xuyên biên giới (CIPS) của Trung Quốc tìm cách giải quyết nhiều vấn đề hiện hữu mà các khoản thanh toán NDT xuyên biên giới đang phải đối mặt. - CIPS cung cấp quyền truy cập một điểm cho người tham gia và một vị trí trung tâm để thanh toán bù trừ các khoản thanh toán bằng NDT.

Hệ thống này cho phép cả ngân hàng trong nước và nước ngoài tham gia, đồng thời cung cấp quyền truy cập trực tiếp vào Hệ thống Thanh toán Tiên tiến Quốc gia Trung Quốc (CNAPS).

Các tính năng này giúp các ngân hàng giảm nhu cầu phải sử dụng các phương thức thanh toán phức tạp thông qua các trung tâm thanh toán bù trừ ở nước ngoài hoặc thông qua các ngân hàng đại lý. Điều này sẽ giúp xử lý thanh toán nhanh hơn và giảm chi phí cho các khoản thanh toán xuyên biên giới.

• CIPS là một hệ thống thanh toán tổng theo thời gian thực, nghĩa là các ngân hàng thanh toán ngay lập tức cho nhau trên cơ sở tổng (gross) thay vì cơ sở ròng (net). Điều này làm giảm rủi ro tín dụng có thể phát sinh trong các hệ thống mà các khoản thanh toán được bù trừ trước khi thanh toán.

• Tin nhắn thanh toán được gửi trong CIPS được viết bằng cả tiếng Anh và tiếng Trung. Điều này giúp loại bỏ nhu cầu dịch tin nhắn sang tiếng Trung trước khi chuyển đến CNAPS. CIPS sử dụng tiêu chuẩn nhắn tin ISO20022, một hệ thống nhắn tin quốc tế được sử dụng rộng rãi cho các giao dịch tiền mặt, chứng khoán, thương mại và ngoại hối.

• CIPS cũng sẽ sử dụng mã định danh ngân hàng SWIFT thay vì mã thanh toán bù trừ CNAPS. Những yếu tố này sẽ cho phép CIPS xử lý trơn tru các khoản thanh toán giữa các ngân hàng nước ngoài sử dụng SWIFT và các ngân hàng đại lục sử dụng CNAPS. Do đó, các khoản thanh toán xuyên biên giới được thực hiện thông qua CIPS sẽ có thể được xử lý trực tiếp.

• Giờ hoạt động của CIPS sẽ kéo dài từ 9:00 sáng đến 8:00 tối theo giờ Thượng Hải. Điều này cho phép hệ thống trùng với giờ làm việc tại Châu Âu, Châu Phi, Châu Đại Dương và Châu Á. Các ngân hàng trong khu vực tài phán này sẽ có thể xử lý các giao dịch bằng Nhân dân tệ trong ngày làm việc của họ. Mặc dù Bắc Mỹ và Nam Mỹ hiện chưa được hỗ trợ, PBOC đã tuyên bố rằng việc mở rộng giờ hoạt động của CIPS là khả thi.

Nhưng CIPS vẫn là một nỗ lực nhỏ nhoi nếu so sánh với SWIFT

• SWIFT vượt trội về số thực thể tài chính tham gia. Năm 2020, hơn 11.000 tổ chức, đặt tại hơn 200 quốc gia, đã được kết nối với SWIFT. Năm 2020, hơn 9,5 tỷ tin nhắn đã được gửi qua mạng lưới, với khối lượng trung bình hàng ngày là 37,7 triệu tin nhắn. Khoảng 49% lưu lượng này là dành cho giao dịch chứng khoán và 45% là dành cho thanh toán. 27% nhu cầu thanh toán bắt nguồn từ Châu Mỹ, 59% ở khu vực bao gồm Châu Âu, Trung Đông và Châu Phi, và phần còn lại ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.

CIPS ban đầu có 19 đơn vị tham gia trực tiếp và 176 đơn vị tham gia gián tiếp từ 50 quốc gia, Theo thống kê gần đây nhất, có 76 đơn vị tham gia trực tiếp, và 1.304 đơn vị tham gia gián tiếp, khoảng 2/5 ở Trung Quốc và 3/5 ở nước ngoài. Các khoản thanh toán và tài khoản của người tham gia trực tiếp được tính bằng đồng NDT.

• CIPS cơ bản vẫn dùng hệ thống tin nhắn và tiêu chuẩn của SWIFT. Những bên tham gia trực tiếp CIPS phải được thành lập tại Trung Quốc để PBOC có thể giám sát hoạt động của họ. Những bên tham gia trực tiếp có thể nhắn tin cho nhau thông qua SWIFT hoặc thông qua hệ thống nhắn tin riêng của CIPS. Những bên tham gia gián tiếp gửi và nhận hướng dẫn thông qua SWIFT, như đã đề cập trước đó. 80% các khoản thanh toán thông qua CIPS sử dụng tin nhắn SWIFT.

Hạn chế dường như không phải là khả năng của hệ thống nhắn tin của CIPS, mà là nhiều tổ chức không phải của Trung Quốc chưa cài đặt trình biên dịch cho tin nhắn CIPS.

• SWIFT không phải là hệ thống thanh toán hoặc bù trừ. Nó chỉ là một hệ thống cơ sở hạ tầng nhận và gửi các tin nhắn tài chính theo tiêu chuẩn ISO. Nó độc lập với các NHTW nhưng lại thực hiện mọi yêu cầu về trừng phạt kinh tế do các NHTW phương Tây đưa ra.

Ngược lại với SWIFT, nhưng tương tự như Công cụ Hỗ trợ Trao đổi Thương mại (INSTEX) do Pháp, Đức và Vương quốc Anh phát triển, CIPS không chỉ là một hệ thống nhắn tin mà còn cung cấp dịch vụ bù trừ và quyết toán cho các khoản thanh toán xuyên biên giới.

• SWIFT xử lý số lượng giao dịch gấp 40 lần CIPS. Vào tháng 3/2022, khối lượng giao dịch hàng ngày trên CIPS là 385 tỷ NDT (45,6 tỷ USD), còn trên SWIFT là 1.800 tỷ USD.

• SWIFT thanh toán nhiều loại tiền tệ. CIPS chỉ thanh toán đồng NDT.

Thúc đẩy CBDC

CBDC là khoản nợ trực tiếp của ngân hàng trung ương, trái ngược với khoản nợ của một tổ chức tài chính tư nhân. Do đó, việc sử dụng CBDC bán lẻ giúp nhà nhập khẩu muốn mua hàng từ một quốc gia khác không cần phải gửi lệnh đến ngân hàng của mình và ngân hàng đó phải thanh toán giao dịch thông qua trung tâm thanh toán bù trừ.

Nhà nhập khẩu chỉ cần chuyển số lượng tiền kỹ thuật số cần thiết từ thẻ thông minh, ví kỹ thuật số hoặc tài khoản của mình tại ngân hàng trung ương sang tài khoản của bên kia. Ngân hàng trung ương thực hiện giao dịch bằng hệ thống bảo mật và sổ cái tập trung của riêng mình. Không cần sử dụng dịch vụ của CHIPS, CIPS, SWIFT hoặc bất kỳ tổ chức tương tự nào. Đây là hình thức kỹ thuật số tương đương với giao dịch tiền mặt.

Mỹ không theo đuổi chiến lược phát triển CBDC như Trung Quốc. Trái lại, họ tập trung vào quản trị stablecoins. Tháng 8/2025, Mỹ đã chính thức ban hành Đạo luật GENIUS – viết tắt của Đạo luật Hướng dẫn và Thiết lập Đổi mới Quốc gia cho Đồng tiền ổn định của Hoa Kỳ (The Guiding and Establishing National Innovation for U.S. Stablecoins Act).

Đạo luật này có một số mục đích và tác động, nhưng ba tác động quan trọng nhất sau đây biến DCEP cuả Trung Quốc thành một thứ phát minh ít hấp dẫn với người bên ngoài Vạn lý trường thành.

• Biến stablecoins thành như là một phần mở rộng của đồng USD. Stablecoin là tài sản kỹ thuật số được neo giá vào USD, do đó đảm bảo tính ổn định và thúc đẩy việc sử dụng chúng trong các giao dịch kỹ thuật số. Bằng cách tích hợp stablecoin vào thị trường tài chính toàn cầu, Đạo luật này tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch xuyên biên giới liền mạch, mở rộng phạm vi hoạt động của đồng USD trong thương mại kỹ thuật số. Việc sử dụng ngày càng tăng này có thể thúc đẩy nhu cầu về trái phiếu Kho bạc Hoa Kỳ, củng cố hơn nữa vị thế tiền tệ dự trữ của USD.

• Cạnh tranh với stablecoin và CBDC nước ngoài. Đạo luật này được định vị là một phản ứng chiến lược trước sự cạnh tranh quốc tế, đặc biệt là từ đồng DCEP của Trung Quốc và các mô hình stablecoin mới nổi khác ở châu Á. Bằng cách thúc đẩy một môi trường pháp lý ổn định, luật này khuyến khích sự đổi mới trong công nghệ blockchain đồng thời ngăn chặn sự bành trướng của CBDC trên toàn cầu. Thay vì giới thiệu một CBDC của Mỹ, Đạo luật GENIUS thúc đẩy các đồng tiền ổn định được hỗ trợ bằng USD như một giải pháp thay thế do thị trường thúc đẩy.

• Củng cố sự thống trị của đồng USD thông qua sự rõ ràng về quy định.

Tìm kiếm một giải pháp thay thế cho tự do hóa tài sản vốn cho đồng tiền dự trữ

Mặc dù không phải là đồng tiền tự do hoán đổi, và thí nghiệm dựa vào dự trữ ngoại tệ dồi dào để chống lại các cuộc tấn công tiền tệ đã thất bại hoàn toàn vào năm 2015 khi dự trữ ngoại tệ chứng kiến sự bốc hơi của 1000 tỷ USD, Trung Quốc dường như đang tìm một giải pháp khác để biến NDT thành đồng tiền đáng để dự trữ.

Ngày nay, đồng NDT gần hơn nhiều với một loại tiền tệ thả nổi. Trước năm 2016, đồng NDT ít biến động, nhưng hiện tại nó được phép dao động quanh ngưỡng 5%/ngày.

Ví dụ, đồng tiền Trung Quốc mất giá vào đầu đại dịch COVID-19 năm 2020, tăng giá khi các hạn chế trong nước được nới lỏng và lại mất giá khi các ngân hàng trung ương phương Tây tăng lãi suất.

Kể từ cuộc tấn công đầu cơ năm 2016, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc vẫn gần như không đổi ở mức 3000 tỷ USD. Thay vì can thiệp để giữ đồng NDT dưới một ngưỡng nhất định, PBOC đã cho phép đồng tiền này tăng giá và mất giá theo lượng ngoại tệ tương đối chảy vào hoặc chảy ra khỏi Trung Quốc.

Việc thiếu mạnh mẽ trong việc mở tài khoản vốn có thể không hoàn toàn ngăn cản NDT đóng vai trò mạnh mẽ hơn như một đồng tiền quốc tế và dự trữ. Điều này không phủ nhận rằng, để vượt qua đồng USD trở thành đồng tiền dự trữ và quốc tế hàng đầu, Trung Quốc sẽ phải tự do hóa hơn nữa tài khoản vốn.

Tuy nhiên, với sự hỗ trợ của tài trợ nhập khẩu, thanh toán nợ, cơ sở hạ tầng thanh toán, các kênh hoán đổi tiền tệ và thị trường nước ngoài, đồng NDT vẫn có thể đạt được vai trò quan trọng hơn.

Nhưng hai lý do quan trọng cản trở NDT trở thành đồng tiền quốc tế (i) Trung Quốc chưa bao giờ sẵn sàng cho các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, (ii) Trung Quốc chưa sẵn sàng để trở thành quốc gia nhập siêu.

Nguồn: Phạm Sỹ Thành