Quân Anh 3 giờ trước
Người theo dõi

Mô hình “chaebol hóa” và đặc thù Việt Nam

Những thời khắc vĩ đại trong phát triển kinh tế không tự đến mà là hệ quả của chuỗi quá trình, từ thiết kế thể chế, kỷ luật thực thi và một cấu trúc sản xuất biết hấp thụ vốn rồi trả lại năng suất. Hàn Quốc đã từng hội tụ những điều kiện như vậy trong nửa sau thế kỷ XX.

Việt Nam hôm nay có thể học hỏi gì từ mô hình thành công cũ của Hàn Quốc? Chiến lược “tăng tốc bằng hạ tầng + doanh nghiệp đầu tàu”, cần được vận dụng như thế nào để đảm bảo hiệu quả và bền vững?

Điều kiện làm nên kỳ tích Hàn Quốc

Chaebol (doanh nghiệp đầu tàu) không chỉ là tập đoàn lớn; đó là một cơ chế ràng buộc hiệu năng. Hàn Quốc gắn ưu đãi tín dụng, bảo lãnh và bảo hộ nhập khẩu với “kỷ luật xuất khẩu”: được nuôi dưỡng nhưng phải thắng trên thị trường thế giới nếu không sẽ mất trợ cấp và thị phần.

Bằng chứng thực nghiệm cho thấy “big push” những năm 1970, các trợ cấp một lần để doanh nghiệp hấp thụ công nghệ đã nâng năng suất doanh nghiệp và lan tỏa, tạo đà thay đổi trạng thái cân bằng của toàn nền công nghiệp Hàn Quốc.

Lý thuyết kinh tế học của Amsden mô tả chính xác logic đó: nhà nước chủ động “bóp méo sự cân bằng” để kích thích tích lũy và học hỏi nhưng đi kèm cơ chế thưởng–phạt dựa trên xuất khẩu để sàng lọc người thắng cuộc thay vì bao cấp vô điều kiện.

Không kém phần quan trọng, Hàn Quốc dựng lên một khung cạnh tranh và quản trị sở hữu chéo nghiêm ngặt. Luật cạnh tranh của Hàn Quốc cấm hình thành "sở hữu vòng tròn" và hạn chế "sở hữu chéo" trong nhóm doanh nghiệp lớn do Ủy ban cạnh tranh (KFTC) giám sát. Điều này nhằm giảm lũng đoạn và rủi ro dây chuyền trong tập đoàn.

Thêm vào đó, kỳ tích sông Hán đằng sau là một nền tảng tri thức, đổi mới ở cấp quốc gia: Hàn Quốc duy trì chi R&D khoảng 5% GDP liên tục trong nhiều năm, thuộc nhóm cao nhất thế giới, với phần lớn do khu vực doanh nghiệp tài trợ, một nhân tố quyết định để chaebol chuyển trục từ lắp ráp sang sở hữu công nghệ.

Bối cảnh Việt Nam

Cơ chế vận hành của nền kinh tế Việt Nam ngày nay có những đặc thù khác với Hàn Quốc trước kia. Mô hình tăng trưởng dựa vào FDI giúp Việt Nam mở rộng nhanh nhưng sự gắn kết giữa khu vực FDI và doanh nghiệp nội địa còn hạn chế.

Báo cáo Viet Nam 2045: Trading Up của Ngân hàng Thế giới chỉ ra: doanh nghiệp nước ngoài chiếm khoảng 73% kim ngạch xuất khẩu; mức tham gia chuỗi của doanh nghiệp nội giảm từ 35% xuống 18% giai đoạn 2009–2023; dịch vụ chỉ chiếm ~12% trong tổng xuất khẩu và tỷ trọng lao động trình độ cao trong sản xuất mới khoảng 5%.

Những “nút thắt” này khiến nền sản xuất nội địa khó leo thang giá trị nếu chỉ bơm vốn và dồn lực cho một vài “đầu tàu”.

Hệ sinh thái đổi mới cũng ở mức rất thấp. Chi R&D trong nước nhiều năm quanh 0,5% GDP, một khoảng cách cơ cấu quá lớn nếu mục tiêu là tạo ra các “đầu tàu công nghệ” kiểu Hàn Quốc, thay vì các tập đoàn thiên về bất động sản – tài chính.

Trong khi đó, năng lực thị trường vốn nội địa vừa trải qua một chu kỳ “đông cứng” của trái phiếu doanh nghiệp.  Sau cú sốc 2022–2023, phát hành 2024 bật tăng trở lại nhưng chủ yếu do ngân hàng còn khu vực phi ngân hàng, đặc biệt bất động sản vẫn yếu, với kỳ đáo hạn 2025–2026 dồn lại lớn và các vụ gia hạn/vi phạm cam kết còn hiện hữu.

Việc phục hồi thị trường vốn là tín hiệu tích cực nhưng nếu quá lạm dụng đòn bẩy tài chính, việc dồn sức cho các đầu tàu có thể tiềm ẩn nguy cơ chuyền rủi ro từ bảng cân đối doanh nghiệp sang bảng cân đối ngân hàng và người dân, nhiều hơn là giải quyết được căn nguyên của vấn đề.

"Vốn mồi" đầu tư công và các dự án hạ tầng trọng điểm sẽ tạo thêm một động cơ tăng trưởng, nhưng nó cũng đòi hỏi một cơ chế kiểm soát hiệu quả. Nếu quản trị đầu tư công chưa cải thiện, mỗi đồng vốn bổ sung sẽ cho ra ít tăng trưởng hơn (ICOR cao).

Nghiên cứu của IMF chỉ ra quốc gia quản trị đầu tư công hiệu quả có “hệ số tác động” gấp đôi so với nhóm kém hiệu quả, tức cùng một điểm phần trăm đầu tư, nhóm hiệu quả nhận lại tăng trưởng cao gấp đôi nhóm kém hiệu quả.

Đồng nghĩa, khi dòng vốn tập trung vào các dự án hiệu quả biên thấp, nền kinh tế sẽ tích lũy nợ và tài sản công kém sinh lời nhanh hơn là tích lũy năng suất.

Hạ tầng + doanh nghiệp đầu tàu: Để tăng trưởng hiệu quả và bền vững

Chiến lược tăng trưởng bằng vào cú hích hạ tầng và một số “đầu tàu” để bền vững đòi hỏi một chuỗi điều kiện đi kèm: kỷ luật hiệu năng ràng buộc bằng chỉ tiêu sản xuất, xuất khẩu; chống sở hữu chéo và giao dịch nội bộ bất minh và quan trọng nhất, phải dùng các dự án mỏ neo để kéo được cụm cung ứng nội địa về sản xuất chứ không kéo thêm đầu cơ đất đai.

Ở mặt tích cực, Việt Nam đang củng cố nền tảng tài khóa, thu ngân sách 2024 vượt kế hoạch nhờ siết quản trị thu thuế, số hóa hóa đơn điện tử, tạo dư địa tài khóa cho đầu tư công, nếu chi đúng chỗ. Dù nó có thể cũng tạo ra một số "tác dụng phụ", chẳng hạn như sức ép dòng tiền lên khu vực doanh nghiệp vốn đã mỏng biên lợi nhuận sau nhiều cú sốc cầu toàn cầu.

Khi thị trường nhà ở tại các đô thị trọng điểm ngày càng “xa tầm với” so với thu nhập của đại bộ phận cư dân, rủi ro xã hội và tài chính là những biến số cần phải tính toán, nếu các đầu tàu vẫn thiên về bất động sản thay vì công nghệ – sản xuất.

Khi theo đuổi một mô hình tăng trưởng dựa trên “đầu tàu”, trọng tâm phải chuyển từ quy mô sang kỷ luật.

Kỷ luật thứ nhất là kết quả có thể kiểm chứng: trợ cấp, tín dụng ưu đãi, hay giao dự án hạ tầng phải đi kèm KPI gắn với sản lượng sản xuất, xuất khẩu ròng, hay tỷ lệ nội địa hóa công nghệ thay vì KPI về diện tích xây dựng hay tốc độ giải ngân.

Lý do không chỉ là nguyên lý quản trị; đó là đúng “DNA” của chiến lược đã hiệu nghiệm ở Hàn Quốc, ưu đãi có điều kiện và bị rút lại khi không đạt.

Kỷ luật thứ hai là khung cạnh tranh và quản trị tập đoàn: mở rộng thẩm quyền/nguồn lực cho cơ quan cạnh tranh để giám sát giao dịch liên kết, sở hữu vòng tròn, và công bố minh bạch “giao dịch nội bộ lớn” theo thông lệ KFTC; nếu không, “đầu tàu” dễ trở thành “đầu nậu” thị trường, bào mòn nền tảng doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Kỷ luật thứ ba là hiệu quả đầu tư công: dùng PIM/PIMA như một “bộ lọc bắt buộc” trước khi rót vốn vào siêu dự án, công khai phân tích chi phí–lợi ích, nhu cầu và nghĩa vụ nợ tiềm ẩn. Đầu tư đúng chuẩn có thể mang lại hệ số tăng trưởng gấp đôi so với đầu tư không chuẩn. Tăng trưởng thực chất và bền vững hay không sẽ được quyết định bởi chênh lệch này.

Cuối cùng là tái cân bằng cấu trúc: nâng tỷ trọng dịch vụ giá trị cao trong xuất khẩu, tìm cách giải phóng liên kết FDI–doanh nghiệp nội bằng các chương trình phát triển nhà cung cấp, tài trợ chuỗi cung ứng và cải cách chuẩn kỹ thuật để hạ rào cản dịch vụ; những hạng mục mà World Bank coi là “điểm rơi” cải cách cho Việt Nam tới 2045. Không có trục này, mọi “đầu tàu” sẽ kéo theo đoàn toa rỗng.

Đằng sau mô hình "chealbol hóa" là bài học "kỷ luật hóa" của Hàn Quốc!

Trong ngắn hạn, nền kinh tế vẫn còn dư địa tài khóa, nợ công ở vùng an toàn và tỷ giá được điều hành linh hoạt. Song con đường phát triển dài hạn không thể chỉ dựa vào bơm vốn hay trao danh xưng “đầu tàu” mà phải được dẫn dắt bởi năng suất và thể chế.

Cốt lõi của tăng trưởng bền vững nằm ở việc đưa ưu đãi đến đúng nơi có khả năng tạo giá trị biên cao nhất; thiết lập cơ chế thưởng–phạt dựa trên kết quả thực; đảm bảo mọi dự án hạ tầng đều được thẩm định, giám sát và vận hành với chuẩn mực kinh tế rõ ràng, để mỗi đồng vốn công đều tìm được đường trở lại GDP.

Tinh thần “chaebol” mà Việt Nam nên học hỏi không nằm ở quy mô hay ưu đãi mà ở kỷ luật hiệu năng, nơi quyền lực kinh tế luôn đi kèm trách nhiệm, cạnh tranh và minh bạch.

Khi hiệu quả thay thế đặc quyền và vốn được ràng buộc bởi kỷ luật kinh tế, tăng trưởng hai chữ số sẽ không còn xa vời. Đó là thành quả có nền tảng vững chắc, tránh được vòng xoáy nợ, bong bóng tài sản và thực sự mở ra một kỷ nguyên vươn mình cho đất nước./. 

Chia sẻ
Báo cáo
Quân Anh Người dùng
Bình luận
Xem thêm

Trở thành người bình luận đầu tiên