Thứ ba, 13/12/2022, 18:58

Lãnh đạo NHNN khẳng định vốn tín dụng không thiếu, room 3,5-4% trong 3 tuần cuối năm là rất lớn

Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ NHNN cho biết, room tín dụng 3,5%-4% trong 3 tuần cuối năm là rất lớn, vì thống kê tháng 12 hàng năm thường chỉ cần từ 2-2,2% room tín dụng. Các ngân hàng hiện nay cũng rất muốn cho vay vì họ phải trả lãi tiền gửi cho khách

Tại tọa đàm "Tháo gỡ khó khăn về vốn cho doanh nghiệp" do báo Người lao động tổ chức sáng nay (13/12), ông Phạm Chí Quang, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ - Ngân hàng Nhà nước cho biết, nguồn vốn của nền kinh tế không chỉ có vốn tín dụng ngân hàng mà còn nhiều kênh khác.

Khơi thông nguồn vốn trung dài hạn để giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng

Cụ thể, các nguồn vốn quan trọng như vốn tự có của doanh nghiệp (DN) tạo đòn bẩy rất lớn cho DN phát triển; kênh trái phiếu DN có quy mô lên đến 1,8 triệu tỉ đồng là kênh dẫn vốn cực kỳ quan trọng, mang lại nguồn vốn bền vững, ổn định, đặc biệt là nguồn vốn dài hạn. Do đó, chúng ta có nhiều giải pháp khơi nguồn vốn trung dài hạn này, đáp ứng nhu cầu của DN. Và kết nối giữa các nguồn này là nguồn vốn tín dụng ngân hàng.

Có điều, ngành ngân hàng không thể mãi lo nguồn vốn trung và dài hạn cho DN vì ngân hàng cũng là DN. Nguồn vốn tín dụng không phải để cấp phát như nguồn vốn ngân sách và không hạ được điều kiện tín dụng để cho vay. Ngân hàng là loại hình doanh nghiệp đặc biệt vì kinh doanh tiền.

Hiện nay, tổng nguồn vốn ngắn hạn của ngành ngân hàng là trên 80%, 20% còn lại là vốn tự có và các nguồn vốn trung và dài hạn. Trong khi đó, ngành ngân hàng đang phải cho vay 50% tổng dư nợ cho nề kinh tế là trung và dài hạn, con số này cho thấy ngành ngân hàng đang chạy với biên độ chênh lệch rất lớn về mặt kỳ hạn giữa huy động và cho vay.

Điều này dẫn đến 2 rủi ro rất lớn, là rủi ro về thanh khoản và rủi ro chi trả cho người gửi tiền. Vì người gửi tiền chỉ gửi khoảng 6 tháng, trong khi ngân hàng có khoảng 50% số tiền gửi 6 tháng này đầu tư đến 5,10 năm thậm chí các dự án bất động sản đầu tư tới 20 năm. Nếu dòng tiền luân chuyển không tốt, nợ xấu phát sinh sẽ không có tiền trả nợ đến hạn 6 tháng cho người gửi tiền. Đây là rủi ro lớn nhất mà ngành NH quan ngại.

Một rủi ro nữa là rủi ro lãi suất. Lãi suất ngắn hạn biến động liên tục, trong khi đó lãi suất cho vay trung dài hạn thường 1 năm theo hợp đồng mới điều chỉnh. Và trong quá trình kinh doanh này, NH đối mặt rất nhiều rủi ro lãi suất trong bối cảnh lạm phát tăng cao, môi trường lãi suất có biến động lớn như giai đoạn hiện nay.

Theo Vụ trưởng Vụ chính sách tiền tệ, NHNN đã đưa ra rất nhiều quy định pháp luật, trong đó có tỉ lệ an toàn, tỉ lệ dùng nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn với lộ trình dài cả 5 năm để các NH nắn chỉnh lại hoạt động của mình theo hướng bền vững hơn. Thưo đó, NH thương mại thực hiện đúng chức năng của mình là cung ứng vốn ngắn hạn cho nền kinh tế, cung cấp các dịch vụ NH. Còn kênh vốn trung dài hạn cho nền kinh tế phải qua thị trường vốn, thị trường trái phiếu DN, thị trường cổ phiếu… Khoảng 3 năm trước chúng ta có nguồn vốn rất lớn vào Việt Nam là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn đầu tư gián tiếp trên chứng khoán và thời điểm đó, NHNN đã mua được hơn 45 tỉ USD. Nhưng do biến động thời gian gần đây, những nguồn vốn này chậm lại.

Rõ ràng là các kênh dẫn vốn và nguồn vốn chảy vào “bể nước” đang nghẽn. Và nguồn vốn quan trọng nhất của nền kinh tế là đầu tư công nhưng vài năm trở lại đây, dù Chính phủ rất quyết liệt thúc đẩy nhưng kết quả giải ngân chậm nên sự lan tỏa vốn từ đầu tư công ra nền kinh tế rất chậm, dẫn đến vòng quay tiền tệ của ngành NH cũng chậm theo.

NHNN có chức năng in tiền, còn NH thương mại có chức năng tạo tiền, nghĩa là huy động tiền gửi của người dân để cho vay. Và quá trình tạo tiền này càng nhanh thì mạch máu của nền kinh tế càng lưu thông tốt hơn. Muốn vậy, phải có tiền để huy động trong đó nhất là từ đầu tư công nhưng thời gian qua rất khó khăn. Các kênh dẫn vốn vào “bể nước” và ra khỏi “bể nước” để dẫn vào các “ruộng” đều đang khó.

Tín dụng là kênh dẫn vốn lớn nhất cho nền kinh tế trong năm nay

“Từ đầu năm đến giờ, kênh dẫn vốn lớn nhất đang chảy ra nền kinh tế là kênh tín dụng NH. Tín dụng tăng trưởng đến nay là trên 12%, mang lại gần 1,4 triệu tỉ đồng cho nền kinh tế trong năm nay. Nói để thấy, vai trò của ngành NH trong thời gian qua đóng vai trò rất lớn cho sự phục hồi và cung ứng vốn cho nền kinh tế. Dù vậy vẫn chưa đủ vì nhu cầu của DN là rất lớn”, ông Quang cho biết.

Gần đây, NHNN đã nới 1,5%-2% trên chỉ tiêu 14% để tăng trưởng tín dụng cả năm sẽ đạt trên 15,5-16%. Như vậy, chỉ còn khoảng 3 tuần cuối tháng 12 để hệ thống NH có thể cung ứng ra nền kinh tế từ 3,5%-4% và đây là điều rất thách thức. Làm sao để ngành NH tiêu 300.000 - 400.000 tỉ đồng dù nhu cầu vốn của DN và nền kinh tế rất lớn. Vì tổ chức tín dụng cũng là DN, họ cho vay trên các điều kiện, điều khoản cho vay, không thể hạ chuẩn, cho vay những DN đang lỗ… Vì tiền cho vay ra là từ huy động của người dân.

Trong bối cảnh này, NH thương mại cũng phải đốt đuốc tìm DN tốt. Ngành NH khẳng định vốn tín dụng không thiếu. Vì room tín dụng 3,5%-4% trong 3 tuần cuối năm là cực kỳ nhiều, vì thống kê tháng 12 hàng năm thường chỉ cần từ 2-2,2% room tín dụng. Các NH cũng rất muốn cho vay vì họ phải trả lãi tiền gửi cho khách hàng, càng đọng vốn càng tăng chi phí.

chỉ còn khoảng 3 tuần cuối tháng 12 để hệ thống NH có thể cung ứng ra nền kinh tế từ 3,5%-4% và đây là điều rất thách thức. Làm sao để ngành NH tiêu 300.000 - 400.000 tỉ đồng dù nhu cầu vốn của DN và nền kinh tế rất lớn. Vì tổ chức tín dụng cũng là DN, họ cho vay trên các điều kiện, điều khoản cho vay, không thể hạ chuẩn, cho vay những DN đang lỗ… Vì tiền cho vay ra là từ huy động của người dân.

Thông tin chứng khoán

Cập nhật 2024-04-19 13:50

VN-INDEX 1,185.91 7.10 -0.60%
HNX-INDEX 222.75 3.45 -1.52%
UPCOM-INDEX 87.37 0.78 -0.89%
VN30-INDEX 1,206.49 4.25 -0.35%
HNX30-INDEX 476.75 8.12 -1.67%
Tỉ giá ngoại tệ

Cập nhật 2024-03-21

Name Giá trị Thay đổi
USD/VND 24781 -0.0121%
EUR/VND 26912 -0.5873%
CNY/VND 3442.0712 -0.0155%
JPY/VND 163.5083 0.000234%
EUR/USD 1.086 -0.5677%
USD/JPY 151.62 0.238%
USD/CNY 7.1995 0.0222%
Giá vàng hôm nay

Cập nhật 2022-05-28 04:58

Loại Giá mua Giá bán
DOJI HN 68,500 69,500
DOJI SG 68,500 69,450
Phú Qúy SJC 68,650 69,400
SJC TP HCM 68,500 69,500
SJC Đà Nẵng 68,500 69,520
PNJ TP.HCM 54,100 55,200
PNJ HN 54,100 55,200

Top thành viên

Tag nổi bật